Một
búp trà chứa đựng hàm lượng văn hóa, giá trị của nó tăng lên gấp bội.
Nhận thức được điều này nên đã có rất nhiều người ở Việt Nam khai vỉa
văn hóa để kinh doanh trà.Cả xã Tà Xùa hiện nay đều không có người mắc
bệnh hiểm nghèo, người dân sống khỏe mạnh. Người Mông ở đây bảo cây trà
là thuốc quý.Cả xã Tà Xùa hiện nay đều không có người mắc bệnh hiểm
nghèo, người dân sống khỏe mạnh. Người Mông ở đây bảo cây trà là thuốc
quý.
- Thu hái trà
Qua miền trà cổ
Từ
TP Hà Nội, ngược quốc lộ 6 đi 130km là tới Mai Châu (Hòa Bình), cửa ngõ
của vùng Tây Bắc Việt Nam. Vượt qua những con dốc dựng đứng uốn lượn
ngoằn ngoèo thêm hơn 10km nữa bạn sẽ tới xã Pà Cò của người Mông.
Trà
là cây bản địa mọc thành rừng từ rất lâu đời ở Pà Cò - nằm cheo leo
trên các núi đá vôi, ẩn mình dưới màn sương mù dày đặc, trắng xóa. Rừng
trà shan tuyết cổ thụ tồn tại nhiều đời, cây trà gốc to sum sê, mỗi gốc
trà phải có 9, 10 người trèo lên hái búp cùng một lúc. Chúng tôi đến bản
Trà Đáy, nơi được coi là thủ phủ của cây trà cổ Pà Cò.
Bên chén
trà ngát hương, ông Sùng A Tô (77 tuổi) kể: “Tôi sinh ra đã thấy những
gốc trà to 2, 3 người ôm rồi. Nghe các cụ kể lại, ngày xưa có con chim
đại bàng từ đâu bay đến, ăn quả rồi nhả ra một hạt rất lạ. Hạt cây đó
rơi xuống đất, lớn lên thành cây. Dân đem lá cây nhấm thử, thấy tinh
thần sảng khoái, từ đó mà truyền nhau lấy lá về vò uống”. Lá cây đó
chính là trà shan tuyết.
Xưa,
cả vùng Pà Cò rộng lớn này là tà xùa (bãi trà), còn dãy núi Pà Háng là
tẩu xùa (núi trà). Trà mọc thành rừng, ken dày đến nỗi có thể di chuyển
hàng cây số trên những tán trà mà không cần đặt chân xuống đất.
Theo
thống kê, hiện ở Pà Cò còn hơn 1.200 cây trà cổ từ 200 - 300 năm tuổi
đã được đánh số bảo vệ và chăm sóc kỹ lưỡng. Chúng tôi choáng ngợp trước
những cây trà cổ thụ, có gốc phải 2 người trưởng thành dang tay ôm mới
kín. Lá trà to, dài, xanh ngắt, đầy đặn, đen thẫm. Nhiều thân trà to,
rêu xanh, nấm mốc trắng bàng bạc phủ kín gốc. Trà ở đây ngon là vì có
sương mù. Trà ngậm sương mù thành tuyết. Búp trà sau khi chế biến vẫn
còn một lớp lông tơ trắng chứa các vi chất có lợi cho sức khỏe.
Chúng tôi về xã Tà Xùa,
huyện Bắc Yên (Sơn La) gồm toàn người Mông cư trú, nằm gọn trong những
đồi trà quanh năm sương mù bao phủ. Vùng đất này có một đặc sản mà ai
cũng biết, đó là những gốc trà shan tuyết cổ thụ sinh tồn ở độ cao 1.500
- 2.300m so với mực nước biển. Chốn này quanh năm mây phủ, nơi thổ
nhưỡng có độ ẩm cao và khí hậu trong trẻo, mát lạnh tạo nên một hương vị
đặc biệt cho cây trà mà không nơi nào có được.
Anh Phạm Vũ Khánh,
Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần chè Hiệp Khánh, khai thác
vùng Trà Tà Xùa đã nhiều năm nay nên thông thuộc mọi ngóc ngách của chốn
này. Luồn lách trong rừng suốt 3 giờ, chúng tôi lạc vào một rừng trà
sừng sững. Những cây trà vạm vỡ, to cao, tán xòe như cây đa, rêu phong,
địa y bám đầy từ gốc đến thân, cành, lá to, dày, búp mập mạp.
Ông
Lường Duy Bân, Phó Chủ tịch UBND huyện Bắc Yên, cho biết: Toàn xã Tà
Xùa hiện có hơn 100ha trà, trong đó có khoảng 72ha đang cho thu hoạch.
Trong số này có khoảng 1 - 2ha, tương đương 400 - 500 cây trà cổ 400 -
500 năm tuổi tập trung ở các bản Mống Vàng và Chung Chinh.
Nơi
quanh năm mây phủ, có độ ẩm cao và khí hậu trong trẻo, mát lạnh nên búp
trà Tà Xùa tươi mập và phủ đậm tuyết hơn so với trà cổ ở các vùng khác.
Chúng tôi vào nhà chị Sùng Thị Lan, ở bản Mống Vàng. Vợ chồng chị vừa đi
hái trà ở trên núi về. Trà vừa hái được bỏ vào chiếc chảo gang bên bếp
lửa hồng làm héo và qua bàn tay kinh nghiệm của gia chủ, những búp trà
xoăn lại theo từng nhịp vò. Việc sao trà ở Tà Sùa do người phụ nữ đảm
nhiệm, truyền từ đời này qua đời khác. Trà Tà Xùa hương dịu ngọt lan
tỏa, màu nước sánh vàng như mật ong mang vị chát nhẹ, hậu ngọt, thanh.
Ông
Mùa A Di, 80 tuổi, ở bản Chung Chinh, nguyên Chủ tịch UBND xã Tà Xùa,
cho biết: “Tập quán canh tác của người Mông phần lớn phụ thuộc vào thiên
nhiên, không bón phân, không phun thuốc, không có sự can thiệp của máy
móc. Bà con ở đây rất quý cây trà Tà Xùa, bởi chính cây thuốc này đã đẩy
lùi các căn bệnh hiểm nghèo của người dân. Cả xã tới nay chưa có ai mắc
phải bệnh hiểm nghèo”.
Chúng tôi chuyển hướng về xã Suối Giàng,
huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Nằm trên độ cao 1.400 - 2.200m so với mực
nước biển, nhiệt độ trung bình 200C, sương mù giăng mắc quanh năm, đất
trời Suối Giàng bốn mùa mát mẻ. Khí hậu tuyệt vời ấy sản sinh ra cây trà
shan tuyết. Hội tụ cả 3 yếu tố hương thơm, vị đậm, nước xanh nên trà
shan tuyết cổ thụ Suối Giàng xưa nay được xem là một trong những thức
uống thơm ngon bậc nhất so với sản phẩm từ tất cả các vùng trà trên cả
nước.
“Tôi đã đi qua 120 nước có trà trên thế giới, nhưng chưa thấy ở đâu có
cây trà lâu năm như ở Suối Giàng, phải chăng đây là cội nguồn của cây
trà? Trà ở đây độc đáo, trong bát nước trà xanh có đủ 18 vị đầu đẳng của
trà trên thế giới”(Viện sĩ K.M. Djemmukhatze, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, ghi trong sổ lưu niệm của UBND xã Suối Giàng năm 1960).
Còn nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
" Chè Suối Giàng tôi nâng lên môi
Chát sao ngẫm nghĩ hóa ra bùi
Ngậm càng đậm ngọt dư vang mãi
Như một tình yêu bền lứa đôi."
Anh
Nguyễn Văn Huy giám đốc Cty Chè Duy Thịnh, nhà nghiên cứu văn hóa
trà,người tâm huyết với chè cổ thụ nói chung và Chè Suối Giàng Yên Bái
nói riêng khoe với tôi việc phát hiện ra ở Suối Giàng lại có một lễ cúng
trà, thường diễn ra vào mùa xuân, bắt đầu vụ trà đầu tiên của năm mới.
Lễ cúng được thực hiện ngay dưới gốc cây trà cổ nhất Suối Giàng, được
xác định đã tồn tại hơn 300 năm. Lễ vật cho lễ cúng gồm một con gà
trống, đôi chai rượu nấu, cùng một số dụng cụ tre nứa, giấy dán… để thầy
cúng cùng dân bản dựng bàn thờ dưới gốc cây trà.Hàng năm, vào mùa xuân,
người Mông ở Suối Giàng làm lễ cúng trà tổ, để mong ước một năm làm trà
bội thu.Ông Giàng A Lử, 76 tuổi, người thôn Giàng B, cho biết: “Lễ cúng
trà tổ hiện nay đã được giản lược đi rất nhiều. Sau khi lập bàn thờ,
tôi sẽ đem các tấm giấy trang trí tượng trưng cho vàng bạc đi hóa vàng
và khấn nguyện lên thần linh, tiếp đến ban rượu cúng và chia lễ vật gồm
thịt gà vừa luộc, xôi, để dân bản cùng ăn mừng, chuẩn bị bắt đầu một mùa
trà với mong ước bội thu”.
Cả vùng Suối Giàng nay còn đến 293ha
trà cổ thụ, hơn 2.400 nhân khẩu của Suối Giàng sống dựa vào rừng trà từ
bao đời qua. Lễ cúng trà tổ như một mối dây liên kết hoàn hảo giữa các
thế hệ gắn bó cùng cây trà và còn là nét văn hóa đậm đà bản sắc, góp
thêm cho hành trình về vùng trà cổ thụ thêm những nét đẹp mới, như để
minh chứng rằng tìm về vùng trà cổ thụ là tìm về cả một vùng văn hóa.
Khơi dòng văn hóa
Bước
vào nghề trà từ hơn 10 năm trước nhưng chỉ từ năm 2007 đến nay, anh
Nguyễn Văn Huy mới quyết tâm đánh thức một báu vật của đất trời Tây Bắc
Việt Nam: trà shan tuyết cổ thụ. Ở đời, sức mạnh của việc truyền miệng
ghê gớm thật. Đi chào hàng, chưa cần xem trà, người ta đã hỏi ngay “có phải trà Thái Nguyên không?”.
Cái câu tục ngữ “Trà Thái, gái Tuyên”
đã ăn sâu vào tiềm thức bao lớp người Việt. Giở đồ nghề ra pha trà mời
khách, rồi mang ảnh, clip ra giới thiệu vùng nguyên liệu trà cổ thụ, trò
chuyện với khách về cách thức trồng và chế biến trà của người Mông ở
các vùng Tà Xùa, Suối Giàng, Pà Cò, về phong tục tập quán của đồng bào
liên quan đến cây trà cổ. Mưa dầm thấm lâu, dần dần người ta nhận ra trà
shan tuyết cổ thụ không chỉ sạch, an toàn (vì đồng bào không dùng bất
cứ phương pháp chăm bón nào, cứ để cây trà mọc tự nhiên thành rừng, uống
sương, hút dưỡng chất đất đá mà sống) mà còn hàm chứa bao nét đẹp của
cộng đồng người Mông.
Người
ta uống không chỉ vì cánh trà đẹp - trắng toát như tuyết, nước trà vàng
ươm, hương trà thơm ngát, vị trà chan chát rồi ngọt dịu, bền lâu mà
người ta còn nhấm nháp cả tinh túy của đất trời Tây Bắc, cả nét văn hóa
bản địa của đồng bào dân tộc Mông can trường, lãng mạn.
“Một
cân trà shan tuyết cổ thụ đắt gấp 10 lần 1 cân trà Thái Nguyên, người
mua vẫn đông. Mỗi năm cây trà shan tuyết cổ thụ chỉ cho thu hoạch 3 vụ,
mỗi cây hái được trung bình chỉ chừng 7 - 8kg trà tươi mà 5kg trà tươi
mới làm được 1kg trà khô. Thế nên trà shan tuyết cổ thụ thật sự là một
báu vật. Muốn mua được trà shan tuyết cổ thụ loại 1, khách hàng phải
đăng ký trước cả tháng mới có mà thưởng thức”, anh Nguyễn Văn Huy cho biết.
Khai
thác nét văn hóa của trà shan tuyết cổ thụ, Công ty TNHH Báo còn thiết
kế các chuyến du lịch cộng đồng lên trải nghiệm cuộc sống thường ngày và
văn hóa của đồng bào bản địa.Bà Trần Thị Thu Hà, Giám đốc Công ty TNHH
Báo, cho biết: “Tháng nào chúng tôi cũng tổ chức ít nhất một chuyến đi
cho khách trong và ngoài nước lên tham gia hái trà, sao trà và uống trà
với đồng bào dân tộc Mông, Dao. Qua chuyến đi, du khách thấu hiểu sự vất
vả của bà con để làm ra được một búp trà, thưởng thức những món ăn,
thức uống chế biến từ trà, thấy được đời sống còn nhiều khó khăn nhưng
lạc quan, vui tươi của đồng bào. Từ đó, góp phần tiêu thụ sản phẩm trà
cũng như lan tỏa văn hóa trà đến đông đảo mọi người”.
Anh Nguyễn Hữu Hương, một khách hàng ở TP Hà Nội vừa tham gia chuyến đi Suối Giàng, tâm sự: “Đầu tiên nghe nói 1 cân trà shan tuyết cổ thụ giá 3.500.000 đồng, tôi ngỡ ngàng thốt lên “Làm gì mà đắt thế!”.
Nhưng đến khi tận mắt chứng kiến, tận tay tham gia làm trà với đồng
bào, tôi thấy giá đó chưa là gì cả. Càng khai thác được nhiều chất văn
hóa trong trà, giá trà càng tăng, người ta càng quý trà”.
Người
Trung Quốc, Nhật Bản cũng uống trà nhiều như người Việt Nam. Và họ đã
nâng thói quen uống trà thành nét văn hóa, thành đạo để kinh doanh và
làm ngoại giao văn hóa. Đáng mừng là điều ấy cũng đang xuất hiện ở Việt
Nam.