Xuất xứ
Trà
ô long trước kia vốn chỉ sản xuất ở Trung Quốc tại ba tỉnh Phúc Kiến,
Đài Loan, Quảng Đông. Phân thành 4 loại: trà núi đá Vũ Di (Bắc Phúc
Kiến), trà Thiết quan âm An Khê (Nam Phúc Kiến), trà ô long Đài Loan và
Pao Chủng.
Sau
1986 vào thời kỳ kinh tế mở cửa ở Việt Nam, nhiều Công ty trà Đài Loan
như Kinh Lộ, Vĩnh Húc, Hai Yin … đã vào miền nam và miền bắc để sản xuất
trà ô long tại Lâm Đồng, Hà Tây và Mộc Châu … Một số công ty chè của
Việt Nam như Cầu tre, Tâm Châu ở Lâm Đồng, Thái Bình ở Lạng sơn cũng đều
sản xuất trà ô long.
Nguyên liệu
Nguyên
liệu phải là búp chè của các giống chè Đài Loan như Kim Tuyên, Ngọc
Thúy, Thanh Tâm, Tứ Quý Xuân … có hương thơm đặc biệt. Búp chè hái xong
bỏ vào túi để héo một thời gian, dù chưa chế biến đã dậy mùi thơm.
Công nghệ (theo Ngô Hữu Hợp và Vũ Hữu Hào)
Trà
đỏ (ô long) có đặc điểm công nghệ là làm héo (phơi héo, tãi héo hay gia
nhiệt) trước khi diệt men, và lên men và làm héo kết hợp liên tục với
quá trình chế biến nhiệt tạo nên đặc trưng của trà ô long. Quy trình chế biến trà ô long gồm các công đoạn:
Làm héo -> Làm xanh -> Sao thanh -> Vò sấy -> Sơ chế -> Tinh chế -> Trà thành phẩm
Lá
chè làm héo được 2 – 3 giờ, thì đưa đi lắc bằng thủ công (xoay sàng cho
chè dập một phần) hoặc quay hương trong lồng tre, rồi đảo trộn rải đều
lại hoặc cho chè héo sang sàng ở thùng quay kiểu lưới. Sau đó trả lại
sàng héo, tiếp tục làm héo. Kết thúc quá trình làm héo và lên men kết
hợp, tổng thời gian của quá trình này không ít hơn 12 giờ. Sau đó đưa
chè đi diệt men.
Diệt men giống như trong sản xuất trà vàng.
Vò
chè mục đích và yêu cầu giống như trong sản xuất trà vàng, nhưng không
vò nóng. Vò chè quấn trrong vải – bó quả – cho thành viên chè tròn đặc
biệt không có ở các loại trà xanh khác.
Từ
sấy sơ bộ đến kết thúc giai đoạn ủ nóng cuối cùng, thực chất là quá
trình chế biến nhiệt phối hợp với làm khô chè từng đợt. Nhờ quá trình
này mà tăng cường mầu nước của trà, chuyển hoá vị trà và nhất là làm
tăng hương thơm đặc trưng của trà ô long.
Cách
pha uống trà ô long tại Trung Quốc rất cầu kỳ. Trong uống trà có ngụ ý
đánh giá phẩm chất trà, đặc điểm là dùng nhiều trà, nước sôi ít, độ nóng
cao, nước trà đặc. Thời gian pha ngắn, pha nhiều lần hương vị vẫn thơm
ngon.
Trà cụ phải đồng bộ, xinh đẹp, lung linh, được gọi là tứ bảo:
Ngọc thư ôi, ấm dùng để đun nước sôi;
Bếp đun Triều Sán (Triều Châu, Quảng Đông), bằng đất sét;
Mạnh thần quán, ấm trà nhỏ đất sét tím (tử sa);
Nham thâm âu, chén trà nhỏ (hạt mít);
Để
uống trà ô long: trước tiên dùng ấm ngọc thư ôi để đun nước sôi, sau
khi nước sôi, dùng nước sôi tráng rửa ấm Mạnh thần quán và chén Nham
thâm âu cho thật nóng. Sau đó bỏ trà ô long vào ấm, lượng trà chiếm
khoảng 6-7 phần 10 ấm, rót ước sôi đầy ấm, dùng nắp gạt hết các bọt sủi
bên trên rồi đậy lại, lại dùng nước sôi tưới lên nắp để giữ nhiệt độ cao
cho nước trà trong ấm. Trước khi uống lại tráng chén hạt mít Nham thâm
âu cho thật nóng. sau khi hãm trà chừng một phút, rót nước trà trong ấm
vào chén, thường một ấm trà rót cho bốn chén hạt mít. Lần dầu rót nửa
chén sau đó lần lượt rót tiếp cho đầy, bảo đảm độ đậm đà của các chén
trà đều nhau.
Khi
thưởng thức, trước tiên ngửi hương thơm trong chén, ngắm nhìn mầu sắc
nước, rồi thong thả nhấp từng ngụm để hưởng thụ đầy đủ cái thú của uống
trà ô long. Sau khi uông, hương lưu trong miệng, vị còn giữ mãi. Uống
hết một chén, pha tiếp chén thứ hai, pha đến 3-4 lần hương vị vẫn còn.
TG:Việt Bắc